Sự thực về Đường Tam Tạng

Trong tác phẩm Tây du ký,  Huyền Trang được Quan Âm Bồ Tát bảo đến Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh Phật giáo mang về Trung Quốc. Ông đã giải thoát Tôn Ngộ Không khỏi núi Ngũ Hành, rồi lần lượt thu nạp các đệ tử Trư Bát giới, Sa Tăng và Bạch Long Mã (trong hình thể con ngựa). Cả đòan đi qua Tây phương ròng rã 14 năm trơì, khi thỉnh được kinh trở về có tám vị Kim Cang đằng vân theo hộ tống đưa về Trường an, vừa khứ hồi trở lại Tây phương cõi Phật chỉ mất có tám ngày vãng phản. Truyện kể bốn thấy trò và một ngựa ngày đêm vượt rừng trèo núi, gặp yêu dẹp yêu, gặp phước làm phước, gian nan không sờn, tử sanh chẳng nệ, trải qua tám mươi mốt nạn lớn, nào là Bàn Ty động quyến rũ, nào là Hỏa diệm sơn đỏ hực, Tiểu lôi kinh khủng v..v… mới đến được Tây phương. Theo hình tượng trong tiểu thuyết, Đường Tam Tạng được xem là tượng trưng cho con người với lòng từ bi, nhân hậu, bao dung, có quyết tâm tu hành vượt qua muôn vàn cám dỗ, ngoài ra còn có tính phàm, u mê, nhu nhược, ba phải.

Trong thực tế, Trần Huyền Trang (Đường Tam Tạng) là nhân vật có thật trong lịch sử, ông tên thật là Trần Vỹ, sinh vào khoảng năm Nhân Thọ thứ 2 đời Tùy Văn Đế Dương Kiên (năm 602) tại huyện Câu Thị, nay là tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Hai người anh trai đã xuất gia làm sư ở chùa Tịnh Thổ Lạc Dương nên từ nhỏ, ông đã theo anh tụng kinh niệm Phật, đồng thời đọc cả sách Nho, Đạo…

Chuyến đi Thiên Trúc, thầy Huyền Trang chỉ có một mình, không hề được sự ân chuẩn của Hoàng đế Đại Đường dù đã 2 lần dâng biểu xin đi. Ngài cỡi một con ngựa già làm chân. Ông đi và ở suốt 17 năm bên Tây phương, gồm 2 năm đi, 2 năm về và 13 năm ở lại du học tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 629 mãi đến năm 645 (sau TL) mới về đến thành Trường an (Trung quốc). Tính ra Huyền Trang đã rời Ðại Ðường đến 17 năm, đi trên năm vạn dặm đường, qua 128 quốc gia lớn nhỏ. Khi về, ông đã mang về:

– 150 Xá Lợi tử ( Tinh cốt của Như Lai).
– 2 tượng Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước
– 3 Tượng Phật bằng đàn hương : Cao 3th5, 2th9, 2th3
– 657 bộ Kinh, chia làm 520 hiệp
– Cùng một số bảo vật khác nữa. và phải dùng voi, lạc đà và 24 ngưạ mới chở hết.

Trên đường đi không có gặp yêu tinh cản trở (có chăng là bọn thích ăn thịt người) nhưng những khó khăn trở ngại cản trở lẫn vật chất và tinh thần lại hết sức nhiều và lơn, nếu là người khác ắt vô phương vượt khỏi. Có lúc Thầy Huyền Trang nhịn đói nhịn khát suốt bảy tám ngày ròng rã giữa một trảng sa mạc trời nắng chang chang, không một bóng cây, cũng không một bóng người qua lại. Nhưng ý chí của Thầy thật là sắt đá. Có lần đói khát khổ quá, bụng tính quay trở về phía đông để tìm chỗ xin nước uống đem theo rồi sẽ đi nữa, nhưng vừa quày ngựa trở về hương đông đi đặng một đỗi đường thầy lại tự nhủ: “Trước kia, đã thề nếu qua không đến Ấn Ðộ, quyết không trở về Ðông một bước. Nay thà đi về hướng Tây mà chết, chớ lẽ nào đi về Ðông để sống hèn“.

Một lần khác, thầy gặp bọn mọi ăn thịt người (Tức bọn yêu tinh kể trong truyện Tây Du). Thầy Tam Tạng sẵn lòng hiến thân cho bọn quỷ khát máu ấy. Nhưng giữa lúc bàn tính, xảy có mưa to sét lơn. Bọn người rừng kinh sợ vì cho rằng trời không bằng lòng. Chúng lật đật giục thầy lên đường, nhưng thầy khăng khăng một mực nài bọn kia: hoặc hãy “ăn thịt Thầy” nếu quả thật thầy có phép làm cho bọn nó sống lâu muôn tuổi, hoặc nếu bọn chúng muốn cho thầy lên đường thì phải ăn năn sám hối, chừa thú tánh, chừa ăn thịt người từ đây. Và rốt cuộc Tam Tạng cải hóa được bọn chúng. Hơn một ngàn ba trăm năm trước đây dám một người một ngựa vượt suối trèo non, băng sa mạc, càn rừng sâu đi đến xứ Ấn Ðộ huyền bí xa xăm, Trần Huyền Trang quả là một nhà du thám vĩ đại trong lịch sử. Kỳ công đó, tinh thần nghị lực đó, người đời sau không thể không nghiêng mình bái phục.

Trong thời gian mười ba năm lưu trú tại Ấn độ, thầy đi viếng hầu hết các di tích của đạo Phật, đặc biệt nhất là thầy ở lại chùa Na Lan Ðà, học đạo trong sáu năm. Tất cả những kinh điển của phái Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Vệ đà (Veda), các sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹ thuật v v… đều tập trung tại chùa này. Chùa do pháp sư Giới Hiền chủ trì và pháp sư có đến trên mười ngàn tín đồ theo học đạo.

Sau sáu năm học tập, Huyền Trang trở nên một trong ba người học trò giỏi nhất của vị cao tăng Giới Hiền. Theo sách khảo cứu Pháp văn, chẳng những là một nhà sư đạo đức, Huyền Trang còn tỏ ra là một học giả uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý học chơn tài, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng, nhứt là một nhà phiên dịch giỏi không ai bằng. Lúc còn ở Tây Phương, đi đến đâu, thầy cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình từng địa phương. Khi về Trường an, thầy viết lại thành bộ Ðại Ðường Tây Vực Ký, gồm 12 quyển, trong ấy ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v. của 128 nước đã trải qua hoặc từng trú ngụ. Ngày nay, những tài liệu của Thầy để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ Ấn Ðộ và bất kỳ ai ngày nay cũng công nhận những điều nghe thấy và ghi chép của Thầy Huyền Trang rất là đích xác.

Từ ngày về Trường an, thầy Huyền Trang bắt tay vào công việc phiên dịch. Suốt mười chín năm ròng rã (từ 645-644) thầy dịch được tất cả bẩy mươi lăm bộ kinh, gần một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển từ Phạn tự dịch qua Hán tự và một bộ (Ðạo đức Kinh) và một bản dịch “Ðại Thừa khởi tín luận” từ chữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ “Ðại Ðường Tây Vực ký” .

Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, Thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, vì bịnh hoạn và già yếu. Thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Ngày cử hành tang lễ có đến một triệu ngươì ở Trường An và các vùng lân cận qui tựu để tiễn chân thầy về nơi Cực Lạc. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần. Từ xưa đến nay chưa có vị đế vương nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này.

(Theo BuddhaSasana)

 

 

Leave a comment